Trường phái Triết_học_Ấn_Độ

Ở Ấn Độ, khó có thể nói chính xác các hệ thống triết học bắt đầu từ lúc nào mà chỉ có thể ước tính khoảng thời gian xuất hiện của chúng. Những hệ thống này được hình thành ngay sau các tác phẩm Áo nghĩa thư (Upaniṣad) cổ nhất được biên soạn hay kết tập lại. Những chuyên luận có hệ thống được viết bằng thể sūtra rất ngắn và súc tích, không trau chuốt nhằm tóm tắt nội dung của bản luận văn dài được soạn thảo công phu. Khó biết được phạm vi ý nghĩa của các sūtra, hoặc phạm vi những vấn đề mà nó sinh khởi về sau. Các sūtra thuộc hệ thống Vedānta, gọi là Śārīraka-sūtras hay Brahma-sūtras thuộc Bādarāyaṇa là dạng rất mơ hồ. Những sūtra này được lý giải bởi những học thuyết thuộc về một hay những hệ thống triết học khác đang hiện hành. Các hệ thống được các học giả duy trì vì nền tảng của hệ thống triết học này thuộc về một hay các trường phái khác trong hệ thống đó. Thế nên các môn sinh của họ được giáo dục theo quan điểm của thầy mình. Mọi suy nghĩ độc lập của mình đều bị giới hạn và kiềm chế bởi niềm tin vào trường phái mà họ gắn bó. Thay vì sản sinh ra một loạt các nhà tư tưởng độc lập, Ấn Độ sản sinh ra những môn đệ thừa hưởng những quan điểm truyền thống của những hệ thống triết học có sẵn từ thế hệ này sang thế hệ khác, giải thích và xiển dương, rồi bảo vệ chúng chống lại sự tấn công của các trường phái đối lập mà họ thường công kích, để thiết lập tính ưu việt hơn cho hệ thống mình đang kế thừa.[3] Các trường phái triết học Ấn Độ có thể đã xuất hiện trong khoảng thời gian sau:

  • 300 trước công nguyên - sự phát triển của nền triết học Ấn giáo (Darshanas) chính thống

Trường phái chính thống (Astika)

Bài chi tiết: Ấn Độ giáo

Trường phái không chính thống (Nastika)

Triết học Jain

Bài chi tiết: Triết học JainĐạo Jain

Triết học Phật giáo

Cārvāka

Bài chi tiết: Cārvāka